Nhà viết kịch người Pháp Jean Anouilh
Nhà viết kịch người Pháp Jean Anouilh
Anonim

Jean Anouilh, trong toàn bộ Jean-Marie-Lucien-Pierre Anouilh, (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1910, Bordeaux, Pháp, qua đời ngày 3 tháng 3 năm 1987, Lausanne, Switz.), Nhà viết kịch trở thành một trong những nhân vật mạnh nhất của nhà hát Pháp và đạt được danh tiếng quốc tế. Những vở kịch của anh là những thông điệp cá nhân mãnh liệt; họ thường thể hiện tình yêu của mình đối với nhà hát cũng như mối hận thù đối với các diễn viên, vợ, nhân tình, nhà phê bình, học giả, quan lại và những người khác. Các kỹ thuật đặc trưng của Anouilh bao gồm vở kịch trong vở kịch, hồi tưởng và chuyển tiếp flash, và trao đổi vai trò.

Đố

Ai đã viết nó?

Ai đã viết The Canterbury Tales?

Gia đình Anouilh chuyển đến Paris khi Jean còn là một thiếu niên, và đó là nơi anh học luật và làm việc ngắn gọn trong quảng cáo. Tuy nhiên, ở tuổi 18, anh đã xem bộ phim Siegfried của Jean Giraudoux, trong đó anh phát hiện ra một ngôn ngữ sân khấu và thơ mộng quyết định sự nghiệp của anh. Ông làm việc ngắn gọn với tư cách là thư ký cho nam diễn viên-đạo diễn vĩ đại Louis Jouvet.

L'Hermine (được thực hiện năm 1932; Ermine) là vở kịch đầu tiên của Anouilh được sản xuất, và thành công đến vào năm 1937 với Le Voyageur sans bagage (Traveller without gửi hành lý), sau đó là La Sauvage (1938).

Anouilh đã từ chối cả Chủ nghĩa Tự nhiên và Chủ nghĩa Hiện thực để ủng hộ cái được gọi là chủ nghĩa sân khấu, một sự trở lại của thơ ca và trí tưởng tượng trên sân khấu. Về mặt kỹ thuật, ông đã cho thấy một sự linh hoạt tuyệt vời, từ cách sử dụng cách điệu của thần thoại Hy Lạp, đến việc viết lại lịch sử, đến vở ballet, đến hài kịch hiện đại của nhân vật. Mặc dù không phải là một nhà tư tưởng có hệ thống như Nhà hiện sinh Jean-Paul Sartre, Anouilh đã phát triển quan điểm riêng của mình về cuộc sống làm nổi bật những mâu thuẫn trong thực tế của con người, hoặc mối quan hệ mơ hồ giữa thiện và ác. Anh ta gọi hai bộ sưu tập chính là các vở kịch hoa hồng Pièces của mình (Những bông hồng màu hồng) và Pièces noires (Những trò chơi đen của Hồi), trong đó những chủ đề tương tự được đối xử nhẹ nhàng hoặc ít hơn. Tầm nhìn ấn tượng của ông về thế giới đặt ra câu hỏi cá nhân phải thỏa hiệp bao xa với sự thật để có được hạnh phúc. Những vở kịch của ông cho thấy đàn ông hay phụ nữ phải đối mặt với sự mất mát của thế giới đặc quyền của thời thơ ấu. Một số nhân vật của anh chấp nhận điều không thể tránh khỏi; một số, chẳng hạn như các sinh vật đầu nhẹ của Le Bal des voleurs (1938; Lễ hội của kẻ trộm), sống dối trá; và những người khác, chẳng hạn như Antigone (1944), từ chối mọi sự giả mạo với lý tưởng.

Với L'Invitation au château (1947; Vòng quanh mặt trăng), tâm trạng của các vở kịch của Anouilh trở nên ảm đạm hơn. Các cặp vợ chồng già của ông dường như thực hiện một điệu nhảy tử thần trong La Valse des toréadors (1952; The Waltz of the Toreadors). L '' '' '' ' Trong một vở kịch lịch sử khác, Becket ou l'honneur de Dieu (1959; Becket, hay, The Honor of God), tình bạn bị nghiền nát giữa sự chính trực tinh thần và quyền lực chính trị.

Trong những năm 1950, Anouilh đưa vào tầm nhìn của mình về thế giới sự mới lạ của sự lên men chính trị: Pauvre Bitos, ou le Dîner de têtes (1956; Poor Bitos). Trong những năm 1960, các vở kịch của ông được nhiều người coi là đã được hẹn hò so với những vở kịch của nhà soạn kịch Vô lý Eugène Ionesco hay Samuel Beckett. Le Boulanger, la boulangère et le petit mitron (1968; khỏe The Baker, Vợ của Baker và Boy Boy Baker) đã được đón nhận một cách lạnh lùng, nhưng trong thập kỷ tiếp theo, những vở kịch mới khác xuất hiện để khẳng định vị trí của anh như một nghệ sĩ giải trí bậc thầy: Cher Antoine; ou, l'amour raté (1969; Antoine thân mến; hoặc, Tình yêu không thành công), Les Poissons rouges; ou, Mon père, ce héros (1970; Hồi Con cá vàng; hoặc, Cha tôi, Anh hùng này), Ne réveillez pas madame (1970; Hồi Đừng đánh thức Lady Lady), Le Directeur de l'opéra (1972), Sự khởi đầu (1975; Lễ bắt giữ), Le Scénario (1976), Vive Henry IV (1977), và La Culotte (1978; Quần The Quần Khăn).

Anouilh cũng đã viết một số kịch bản phim thành công và dịch từ tiếng Anh một số tác phẩm của các vở kịch khác.